Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
của Kim Lân để làm sáng tỏ vẻ đẹp của
tình người.
Bài làm:
I. Mở bài
Kim Lân là nhà văn sớm nhập cuộc xã hội. Ông là tấm
gương lớn về sự nỗ lực tự học. Do hoàn cảnh gia đình khó khắn Kim Lân chỉ học hết
bậc tiểu học. Cuộc đời rộng lớn chính là trường đại học của ông. Đấy là cơ sở
cho những trang viết vừa bề bộn chất sống, vừa rất đỗi tinh tế, tài hoa. Vợ nhặt
là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Truyện ngắn này không chỉ hấp
dẫn người đọc bởi tình huống truyện độc đáo, bất ngờ, mà còn ở chỗ nhà văn đã
xây dựng thành công những nhân vật chính như anh cu Tràng để lại trong lòng bạn
đọc những ấn tượng sâu sắc. Diễn biến tâm trạng của nhân vật cũng thể hiện giá
trị nhân đạo và vẻ đẹp của tình người trong tác phẩm.
II. Thân bài
1: Khái quát
hoàn cảnh ra đời và hoàn cảnh sống của các nhân vật
“Vợ nhặt” được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm
1945 với hai triệu người chết đói. ( Nhân dân Việt Nam cùng lúc bị áp bức, bóc
lột bởi phát xít Nhật và thực dân Pháp. Ở miền Bắc, Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng
đay, trong khi đó thực dân Pháp ra sức vơ vét thóc gạo. Hậu quả là cuối năm
1945 dân ta rơi vào thảm cảnh bi cùng. Đó là nạn đói chưa từng có trong lịch sử.)
Nhưng điều kì lạ là trong đói khát tăm tối ấy, cận kề bên miệng vực của cái chết,
những người lao động Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống,
ánh sáng, hạnh phúc, tương lai. Đó là chất người kì diệu, là khát vọng sống mạnh
mẽ của con người Việt Nam đã khơi nguồn cảm hứng cho Kim Lân sáng tác nên thiên
truyện ngắn đặc sắc này.
2: Thân phận
nhân vật Tràng
• Xuất
thân: ngụ cư, lép vế
• Gia cảnh:
nghèo khó, ngôi nhà rúm ró, chiếc áo nâu tàng
• Nghề
nghiệp: kéo xe bò thuê
• Ngoại
hình: đầu trọc lốc, mắt gà gà, thân hình to lớn, …
• Tính
cách: dở tính,
Lời văn:
Tràng là một gã trai nghèo khổ, cái nghèo khổ đến tột
cùng. Cái nghèo ấy hiện hữu trong “chiếc áo nâu tàng”, cái nhà Tràng thì “vắng
teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại”, và Tràng chỉ là
người kéo xe bò thuê. Đến cái tên cũng thể hiện sự thô kệch, nghèo khó: Tràng –
một dụng cụ dùng trong nghề mộc. Ngòi bút của Kim Lân đã vô cùng sống động khi
khắc họa bức chân dung của Tràng: ” hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều,
hai bên quai hàm bạch ra”, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạp vạm, cái đầu
thì trọc lốc … Dưới ngòi bút của Kim Lân Tràng hiện lên như một bức chân dung vẽ
vội, một hình hài mà tạo hóa đẽo gọt, quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí,
nghèo khổ, ở tầng lớp cùng đinh mà Tràng còn là người dở tính, “hắn có tật vừa
đi vừa nói”, “hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ” thỉnh thoảng còn ngẩng
mặt lên trời cười hềnh hệch.
3: Diễn biến
tâm trạng nhân vật Tràng: 4 chặng
– Chặng 1: “Chợn” (sợ). Nhưng rồi tặc lưỡi “chậc” (kệ)
=> Một sự táo bạo liều lĩnh, đánh cuộc với cái đói
để đi đến hạnh phúc đời thường.
– Chặng 2: Tự đắc, niềm vui, hồi hộp, nhưng vẫn sống
và sống trong cảm giác nghi hoặc
+ Trên đường đưa vợ về nhà (tự đắc, niềm vui)
+ Khi vợ vào nhà (hồi hộp nhưng vẫn lấy lại được sự
bình tĩnh cần thiết, nghi hoặc)
– Chặng 3: Ý thức và hạnh phúc: “Bây giờ hắn mới thấy
hắn nên người”….”Hắn xăm xăm chạy ra….căn nhà”
+ Phân tích từ “nên người” và “xăm xăm”
=> Hành động nhanh, mạnh, quyết định, thể hiện sự
chủ động của Tràng.
– Chặng 4: Dự cảm đổi đời
+ Phân tích câu cuối cùng và hình ảnh lá cờ.
Lời văn:
Tràng là một thân phận thấp hèn nhưng lại là một chú rể
thực sự hạnh phúc. Trước tình huống “nhặt” vợ, tâm lý của Tràng diễn biến thành
những chặng sau:
Chặng một là Tràng đến với người vợ nhặt trong một quyết
định vừa tầm vơ tầm phào, liều lĩnh, bởi ban đầu chủ tâm Tràng hò một câu cho đỡ
nhọc:
“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!”
Mọi sự mời mọc nhất nhất là đùa, về phía cô vợ nhặt,
bàn đầu chủ yếu cũng là đùa. Tràng mới đầu cũng “chợn” nghĩa là sợ, nhưng rồi tặc
lưỡi:”Chậc! kệ” – một quyết định có vẻ như đùa đối với sự kiện trọng đại của đời
người. Song hoàn cảnh ấy, cái tặc lưỡi của Tràng là một sự táo bạo liều lĩnh.
Tràng đã dám đánh cuộc với cái đói, cái nghèo để đi đến miền hạnh phúc của đời
thường.
Chặng hai của diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng
là những cảm xúc tự đắc, hồi hộp xen lẫn niềm vui khi “nhặt” được vợ. Hạnh phúc
tạo niềm vui lớn cho Tràng , nhà văn Kim Lân nhắc ta nhớ đến hình ảnh đôi mắt của
Tràng lúc này sáng lên lấp lánh, nụ cười tủm tỉm. Đó là ánh mắt nụ cười của con
người đang sống trong cảm giác hạnh phúc. Lần đầu tiên đi bên cạnh người đàn
bà, Tràng lấy làm hãnh diện vô cùng, mốn nói một câu cho thật tình tứ nhưng chẳng
biết nói thế nào thành ra những câu đối đáp với vợ trở nên cộc lốc, nhát gừng,
rời rạc, bởi hạnh phúc đến với Tràng quá bất ngờ. Tràng đã sống trong cảm giác
hạnh phúc: “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở”. Kim Lân đã chọn được một từ chân
quê nhưng rất chính xác “phớn phở” để diễn tả tâm trạng sung sướng, hồ hởi, hân
hoan được biểu lộ ra ngoài gương mặt nhân vật. Khi chứng kiến hình ảnh những
người dân ngụ cư tò mò quan sát sự xuất hiện của mình với người đàn bà lạ,
Tràng lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc. Càng về gần nhà thì
dường như chất men tình say sưa trong Tràng càng ngấm nhiều hơn và trở thành
cái nghĩa tình hết sức thấm thía: “Trong một lúc, hình như Tràng quên hết những
cảnh sống khổ cực ê trề…trong lòng hắn lúc đó chỉ còn lại cái nghĩ tình giữa hắn
và người đàn bà đang đi bên cạnh. Có cái gì mới mẻ, lạ lắm “ở người đàn ông
nghèo khổ này”. Cũng trên đường về nhà, hình tượng Tràng cũng được nhà văn Kim
Lân khắc họa rất chân thực, người đàn ông ấy hình như cũng có cái nhìn bối rối
khi thấy người dân xóm ngụ cư quan tâm. Nhưng có lẽ, cùng với niềm vui hạnh
phúc, người ta bắt gặp ở Tràng một người đàn ông đã trưởng thành, chững trạc,
điều đó bộc lộ ở cách ứng xử. Trước lời trên đừa của đám trẻ con Tràng đã mắng
yêu: “Bố ranh”. Tràng khéo léo từ chối những lời chèo khéo mời mọc của những
người dân xóm ngụ cư để đưa vợ về một cách khéo léo. Tràng khoe chai dầu mới
mua bằng hai hào với lí do “vợ mới vợ miết cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ”.
Lời nói giản dị nhưng chứa đựng trong đó bao nhiêu nhận thức, tình cảm của nhân
vật: có được vợ một cách dễ dàng nhưng không vì thế mà Tràng coi thường vợ, ngược
lại vẫn trân trọng hạnh phúc.
Khi vào nhà, với người đàn ông, lấy vợ là một việc hệ
trọng trong cuộc đời, quyết định tương lai hạnh phúc. Thông thường việc này phải
được hai bên cha mệ cho phép. Nhưng việc lấy vợ của của Tràng hoàn toàn bất ngờ.
Bởi vậy ban đầu Tràng cũng có tâm lý lo âu hồi hộp. Tràng bước ra sân, khi gặp
mẹ, Tràng như một đứa trẻ, reo lên: “U đã về đấy!….sao u về muộn thế! Làm tôi đợi
nóng cả ruột”. Nhưng sau thoáng lo âu hồi hộp ấy, Tràng lấy lại được sự bifh
tĩnh cần thiết, giới thiệu vợ với mẹ bằng một câu ý nghĩa “kìa nhà tôi nó chào
u”. Thấy mẹ vẫn chưa hiểu Tràng lại nói: “nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy
u ạ…chẳng qua nó cũng là cái số cả…” Bằng câu nói ấy, Tràng đã xác định rõ ràng
mối quan hệ của mình với người phụ nữ đẩy người nghe và bà cụ Tứ buộc phải chấp
nhận. Không chỉ vậy câu nói còn lý giải mối quan hệ với vợ là duyên số – một
cách lý giải của một người từng trải, chín chắn, chững chạc.
Bên cạnh cảm giác tự đắc, phớn phở, hạnh phúc, Tràng vẫn
còn tâm lý nghi hoặc, bàng hoàng. Nhìn cô vợ ngồi ngay giữa nhà mà Tràng vẫn
không thể tin là vợ mình. “Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?” Chao ôi hạnh phúc giữa
năm đói như một điều xa xỉ, cầm mắm ở trong tay mà vẫn không tin đó là sự thật.
Những cảm xúc hồi hộp, lo lắng, hạnh phúc lẫn lộn
Tràng dần chuyển sang ý thức được hạnh phúc bản thân. Con người mong hạnh phúc
đến và hạnh phúc đến lượt nó có thể làm thay đổi con người. Trước hạnh phúc
Tràng như lột xác, lần đầu tiên, anh ta run rấy sống trong một cảm giác rất người:
“bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Hắn đã có
một gia đình: Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy…”Bây giờ hắn mới thấy hắn
nên người”. Hai chữ “nên người” hạ xuống như một điểm nhấn xác nhận sự biến đổi
về chất ở Tràng. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của
xã hội. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội.
Là căn cốt của nhân tính. Tràng phục sinh nhân tính nhờ vươn tới ý thức về gia
đình.
Song chi tiết đắt nhất của Kim Lân không phải ở đó mà
có lẽ là ở câu văn này:” Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn là một việc
gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Hai chữ “xăm xăm” gợi lên bao nhiêu là hăm hở,
háo hức trong bước chân của Tràng tìm đến hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng hơn
đấy là dấu hiệu một bước ngoặt lớn ở Tràng. So với cái dáng “ngật ngưỡng” ở mở
đầu tác phẩm, hành động xăm xăm này là một đột biến không chỉ ở dáng đi mà còn
là thay đổi cả số phận, tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ ngây
dại sang ý thức. Nàng Kiều xưa từng “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du). Gót chân đến với hạnh phúc của Kiều táo bạo thế mà cứ
chênh vênh, đơn độc khiến cho người đọc lo lắng bởi chỉ có một mình giữa đêm
trăng trung cổ. Còn cái “xăm xăm” của Tràng mới vững khỏe, tự tin làm sao, bởi
Tràng có cả một gia đình. Và đó là cái xăm xăm của con người trong hạnh phúc.
Khi ý thức được tương lai hạnh phúc của riêng mình,
tâm trạng Tràng chuyển biến sang một dự cảm đội đời. Khi miếng cám đắng chát,
ngậm ứ xuất hiện trong âm thanh tiếng trống thu thuế, dồn dập, tự là lúc cuộc sống
đã bị đẩy đến miệng vưc của cái đói, cái chết thì cũng là lúc hình ảnh lá cờ đỏ
hiện lên làm nên một câu rất quan trọng của tác phẩm. “Trong óc Tràng vẫn thấy
đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Lá cờ đỏ – hình tượng thoáng qua ấy
khi được đặt vào đoạn kết mang bao sức nặng về tư tưởng và nghệ thuật cho thiên
truyện. Nếu vắng chi tiết này tác phẩm sẽ xa lối kết cấu khép của văn học hiện
thực phê phán. Sự có mặt của chi tiết nghệ thuật này khiến cho câu chuyện có một
cái kết mở nhờ thế thiên truyện đã đóng lại. Nhưng số phận nhân vật vẫn tiếp tục
được vận động theo hướng lạc quan, đi lên chứ không bế tắc như anh Pha của Nguyễn
Công Hoan, chị Dậu của Nguyễn Tất Tố, Chí Phèo của Nam Cao…Hình ảnh lá cờ đỏ
sao vàng đã vẫy lên như một tín hiệu đổi đời, một tương lai tươi sáng.
III. Kết bài
Qua hình tượng nhân vật Tràng, Kim Lân còn khẳng định
hiện thực cuộc sống có ngột ngạt, tăm tối đến đâu thì sự sống vẫn trỗi dậy,
vươn lên mãnh liệt, con người vẫn cố gắng vật lộn với hoàn cảnh để khẳng định
tư cách Người ngời sáng của mình. Xét cho cùng, hình tượng nhân vật Tràng đã
giúp Kim Lân thể hiện được thành công một khúc ca chứa đựng niềm tin mãnh liệt
của con người vào sự sống: “sự sống chẳng bao giờ chán nản” (Xuân Diệu), chính
là biểu hiện giá trị nhân đạo mang những nét nhân văn cao cả và rất riêng của
Kim Lân. Nó giúp người đọc nhận ra được nét đặc sắc riêng của tác phẩm khi đặt
bên cạnh những sáng tác viết về người nông dân trước sự thử thách của cái
nghèo, cái đói.
Theo: Diễn đàn Văn Học
Theo: Diễn đàn Văn Học
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét